Chậm nói ở trẻ em – Làm thế nào để phát hiện sớm và can thiệp kịp thời

18-08-2024

 

I, Mở đầu 

Trẻ em hôm nay – thế giới ngày mai. Thật vậy, để trẻ em có thể là chủ nhân của thế giới thì học tập ngôn ngữ là một nhiệm vụ rất quan trọng với trẻ nhỏ. Các ngôn ngữ trên thế giới chứa hàng nghìn từ mà có thể kết hợp với nhau để truyền đạt vô số nghĩa. Trẻ em được sinh ra không biết ngôn ngữ gì mà chúng cần phải học. Nếu sinh ra ở Brazil trẻ sẽ phải học tiếng Bồ Đào Nha. Nếu sinh ra ở Bỉ hay là những trẻ nhập cư hoặc từ các gia đình tị nạn thì chúng cần phải học đồng thời 2 ngôn ngữ khác nhau. Bất chấp các thách thức này, phần lớn trẻ em đạt được khả năng ngôn ngữ cơ bản dễ dàng trong những năm tháng tập đi và tiền học đường. Lúc 5 tuổi, trẻ sẽ có vốn từ là hàng nghìn từ vựng; tạo thành các câu với ngữ pháp phức tạp; phân biệt nghĩa đen-nghĩa bóng; tuân theo các quy tắc xã hội của giao tiếp; và áp dụng các kỹ năng ngôn ngữ để phục vụ cho việc học đọc. Đến năm 8 tuổi, khả năng âm vị (speech sound) của trẻ hoàn thiện.

 II, Các định nghĩa

Ngôn ngữ là hình thức giao tiếp đặc trưng của con người mà gắn kết các nhóm xã hội loài người. Ngôn ngữ sử dụng tuỳ ý thông qua các tín hiệu (từ và câu) nhưng cần được chấp nhận về mặt xã hội trong một hệ thống quy tắc bị chi phối để truyền đạt ý nghĩa. Không giống như giao tiếp ở động vật, ngôn ngữ loài người sử dụng các tín hiệu tạo thành sự giao tiếp vượt xa hơn hiện tại và bây giờ, cho phép thảo luận các sự kiện quá khứ hoặc tương lai và các ý tưởng mang tính tưởng tượng, giả thiết hoặc trừu tượng. 

Lời nói là sản phẩm của hệ ngôn ngữ, được tạo thành bởi các cử động kết hợp và phức tạp của các cấu trúc bao gồm: hô hấp, thanh quản, vòm miệng và miệng. Các sản phẩm khác của ngôn ngữ gồm: ngôn ngữ ký hiệu và ngôn ngữ viết. 

Ngôn ngữ được chia thành: ngôn ngữ tiếp nhận (khả năng hiểu) và ngôn ngữ biểu hiện (khả năng diễn đạt). Ngôn ngữ còn được cho là sự tương tác giữa các hệ thống con: âm vị hay hệ thống âm tố (phonology), từ vựng (lexicon), cú pháp (syntax), ngữ nghĩa (semantics), và ngữ dụng học (pragmatics). Lời nói cũng bao gồm các hệ thống con: cấu âm (articulation), tiếng âm và cộng hưởng (voice and resonance), và sự lưu loát (fluency)

III, Các mốc chính trong sự phát triển của ngôn ngữ tiếp nhận, ngôn ngữ biểu hiện và lời nói của trẻ

TuổiKỹ năng tiếp nhận                 Kỹ năng biểu hiện                   Lời nói               
Sơ sinh   

- Chú ý với âm thanh               

- Quan tâm đến khuôn mặt     

Khóc 
3 tháng- Cười khi được trò chuyện 

- Cách khóc khác nhau tuỳ thuộc nhu cầu

- Thủ thỉ (phát ra các âm thanh giống nguyên âm)

- Thủ thỉ qua lại với người lớn

 
6 tháng- Quay lại khi được gọi tên- Bắt đầu bập bẹ (phát ra thêm được các phụ âm như b, d, m) 
9 tháng

- Dừng lại khi được thông báo “không”

- Học các thói quen như vẫy tay tạm biệt

 

- Chỉ được những đồ vật hoặc hoạt động mà trẻ muốn hoặc hứng thú

- Nói baba hoặc mama không chọn lọc

 
12 thángThực hiện theo các mệnh lệnh đơn giản cần ra hiệu của người lớn

- Nói baba hoặc mama có chọn lọc

- Các chuỗi bập bẹ mà âm thanh giống lời nói

- Nói được các từ đầu tiên

 
15-18 tháng

- Chỉ được các bộ phận của cơ thể

- Thực hiện theo các mệnh lệnh đơn mà không cần ra hiệu

 

- Gia tăng thêm các từ chậm

- Sử dụng các từ theo dạng đơn giản và theo cách riêng của trẻ

- Tham gia vào giao tiếp

 
18-24 tháng- Hiểu được câu

- Vốn từ ≥ 50 từ

- Học các từ vựng mới dễ dàng

- Sử dụng cụm 2 từ

- 50% sử dụng đúng các âm: p, m, h, n, w, b
24-36 tháng

- Thực hiện theo các mệnh lệnh có 2 và 3 bước

- Đặt được các câu hỏi dạng “Wh-questions” (ai, ở đâu, khi nào,…)

 

- Sử dụng cụm từ > 2 từ

- Gia tăng sử dụng các cấu trúc ngữ pháp phức tạp như phủ định, câu hỏi

- 50% sử dụng đúng các âm: k, g, d, t, ng, f, y
36-48 tháng

- Hiểu được số nhiều, đại từ và

sở hữu

- Hiểu được các câu hỏi như ai, tại sao, bao nhiêu, …

- Kết hợp 3-4 thành 1 câu

- Sử dụng các liên từ như và, hoặc, nhưng

- 90% sử dụng đúng các âm: p, m, h, n, w, b

- 50% sử dụng đúng các âm: r, l, s, t, ch, sh, z

- Có thể nói được các phụ âm cuối trong các từ như bus

- Không còn thay thế các âm được phát ra từ phần sau của miệng (g, k) với các âm được phát ra từ phần trước của miệng (d, t)

48-60 tháng- Hiểu được các khái niệm,  chẳng hạn như  giống nhau/khác nhau

- Sử dụng các cử chỉ ở mức độ thành thạo gần như người lớn

- Xây dựng được các bài nói mang tính diễn thuyết như kể chuyện, đưa ra lời giải thích

 

- 50% sử dụng đúng âm j, v, âm vô thanh như th (thing)

- 90% sử dụng đúng các âm k, g, d, t, ng, f, y

- Nói được đúng các cụm phụ âm, ví dụ như st trong từ stop

- Không còn loại bỏ các âm tiết yếu và không được nhấn mạnh trong từ, chẳng hạn như trong từ banana

60-84 tháng 

- Bị giới hạn bởi kiến thức của trẻ, kỹ năng ngôn ngữ thì không

- Hiểu được sự đùa giỡn, ẩn dụ

- Phát triển ngôn ngữ thành thạo

- Gia tăng sử dụng các từ vựng tinh tế và ngữ pháp phức tạp

 

- 90% sử dụng đúng các âm r, l, s, ch, sh, z, j, v, th

- Không còn thay thế các âm lỏng (r, l) với các âm nước (w, j) nữa

- Có thể sử dụng đúng các âm tắc xát hẹp, chẳng hạn như âm vô thanh th

 

 

 

IV, Chậm trễ trong ngôn ngữ và lời nói

Thuật ngữ chậm trễ nhằm ám chỉ sự phát triển các kỹ năng ngôn ngữ hoặc lời nói chậm hơn so với mong đợi theo tuổi và kiểu phát triển thì bình thường. Thuật ngữ này khác với rối loạn là sự chệch hướng trong phát triển ngôn ngữ và lời nói khỏi những gì mong đợi là bình thường. 

Sự chậm trễ trở nên có ý nghĩa về mặt lâm sàng khi tốc độ phát triển dưới 75% mong đợi, ví dụ như khi một kỹ năng mong đợi ở trẻ 18 tháng không đạt được ở trẻ 24 tháng tuổi (18/24 = 75%). Để có thể phát hiện sớm trẻ có biểu hiện chậm trễ trong ngôn ngữ và lời nói cần hỏi kỹ tiền sử; thăm khám về thể chất và thần kinh đồng thời quan sát sự phát triển tâm thần ở trẻ. 

Hội Nhi khoa Hoa Kỳ khuyến cáo rằng nên sàng lọc bằng các công cụ được phê duyệt ít nhất là lúc trẻ 9, 18 và 24 đến 30 tháng tuổi. Quá trình sàng lọc thường gồm 2 bước. Bước 1: nên sử dụng các công cụ sàng lọc chung như thang đánh giá trạng thái phát triển tâm thần thông qua bố mẹ (PEDT) hoặc bộ câu hỏi đánh giá các giai đoạn phát triển và tuổi phiên bản lần 3(ASQ 3rd). Bước 2 đánh giá nguy cơ rối loạn phổ tự kỷ có thể sử dụng thang M-CHAT. Sàng lọc tự kỷ đơn độc là không đủ để đánh giá nguy cơ chậm trễ hoặc rối loạn ngôn ngữ và lời nói vì tự kỷ có tỷ lệ thấp hơn. Phát hiện sớm trẻ có chậm trễ để có thể đưa ra các can thiệp ngôn ngữ-lời phù hợp nhất với trẻ.

Tài liệu tham khảo:

1.  Heidi M. Feldman.  How Young Children Learn Language and Speech.  Pediatrics in Review 2019;40;398

2. Sophie Jullien. Screening for language and speech delay in children under five years.  Jullien BMC Pediatrics 2021, 21(Suppl 1):362

Tác giả: Đậu Xuân Quang