RỐI LOẠN DẠNG CƠ THỂ (F45)
Để chẩn đoán xác định Rối loạn dạng cơ thể chúng ta cần phải nắm rõ “Rối loạn dạng cơ thể là gì” ?
Rối loạn dạng cơ thể: là rối loạn tâm thần đa dạng biểu hiện chủ yếu bằng các triệu chứng cơ thể. Các triệu chứng cơ thể này không có cơ sở tổn thương thực thực tổn. Nét chính của các rối loạn dạng cơ thể là biểu hiện tái diễn các triệu chứng cơ thể, cùng với những yêu cầu dai dẳng đòi khám xét về y tế, mặc dù kết quả âm tính nhiều lần và thầy thuốc bảo đảm rằng các triệu chứng này không có cơ sở bệnh cơ thể, đặc biệt ở những bệnh nhân tức giận vì đã thất bại do không thuyết phục được bác sĩ tin là bản chất bệnh mình chủ yếu là bệnh cơ thể và cần được khám xét thêm nữa.
Rối loạn này thường bắt đầu ở những người trẻ tuổi và trưởng thành. Các triệu chứng khởi đầu có liên quan chặt chẽ với các sang chấn (stress) tâm lý trong đời sống xã hội và trong sinh hoạt hàng ngày. Rối loạn này thường là một hội chứng ổn định, đơn độc và thường gặp ở nữ giới nhiều hơn.
Vậy khi nào thì chúng ta đủ điều kiện để chẩn đoán “Rối loạn dạng cơ thể” ?
Để chẩn đoán xác định Rối loạn dạng cơ thể đòi hỏi bệnh nhân có tất cả những dấu hiệu sau:
- Bệnh nhân than phiền dai dẳng các triệu chứng cơ thể nhiều loại mặc dù kết quả âm tính nhiều lần và thầy thuốc đảm bảo rằng các triệu chứng này không có cơ sở bệnh cơ thể.
- Yêu cầu dai dẳng dòi khám xét về y tế để điều trị các triệu chứng hoặc để tìm một bệnh cơ thể nằm bên dưới các triệu chứng hiện có.
- Bệnh nhân thường dừng lại những cố gắng muốn thảo luận về khả năng có nguyên nhân tâm lý.
- Trầm cảm và lo âu thường có và có thể biện minh cho sự điều trị đặc hiệu.
Tương tự như các bệnh lý rối loạn tâm thần khác thì “Rối loạn dạng cơ thể” cũng chia làm nhiều thể lâm sàng khác nhau và do vậy nguyên tắc chẩn đoán từng thể lâm sàng có những điểm khác nhau
1. Rối loạn cơ thể hóa (F45.0)
Nguyên tắc chẩn đoán: chẩn đoán xác định đòi hỏi tất cả những dấu hiệu sau:
- Ít nhất 2 năm có những triệu chứng cơ thể nhiều loại và thay đổi mà không tìm thấy một giải thích thỏa đáng nào về mặt cơ thể.
- Dai dẳng từ chối lời khuyên của thầy thuốc rằng không cắt nghĩa được các triệu chứng chứng về mặt cơ thể.
- Một số mức độ tật chứng của hoạt động xã hội và gia đình có thể qui vào bản chất của các triệu chứng và hành vi đã gây ra.
2. Rối loạn dạng cơ thể không phân biệt (F45.1)
Bệnh nhân phàn nàn về nhiều triệu chứng cơ thể, thay đổi và dai dẳng nhưng không có đủ một bệnh cảnh lâm sàng toàn vẹn và điển hình của rối loạn cơ thể hóa.
Có thể có hoặc không có cơ sở để phỏng đoán căn nguyên tâm lý, nhưng phải không có cơ sở thực thể của các triệu chứng dùng làm chẩn đoán bệnh tâm thần.
3. Rối loạn nghi bệnh (F45.2)
Nguyên tắc chẩn đoán: chẩn đoán xác định đòi hỏi tất cả những dấu hiệu sau:
- Dai dẳng tin vào khả năng bị một bệnh cơ thể nặng nằm bên dưới các triệu chứng hiện có, mặc dù khám lâm sàng và làm xét nghiệm nhiều lần đã không chứng minh được điều đó, hoặc là bận tâm dai dẳng cho là có dị hình hoặc biến dạng.
- Dai dẳng từ chối lời khuyên và trấn an của thầy thuốc là không có bệnh cơ thể hoặc một sự bất thường nào bên dưới các triệu chứng.
4. Loạn chức năng thần kinh tự trị dạng cơ thể (F45.3)
Nguyên tắc chẩn đoán: chẩn đoán xác định đòi hỏi tất cả những dấu hiệu sau:
- Triệu chứng hưng phấn thần kinh tự trị như đánh trống ngực, ra mồ hôi, run, đỏ mặt... dai dẳng và khó chịu.
- Các triệu chứng chủ quan thêm vào dược qui cho một cơ quan hoặc hệ thống đặc hiệu.
- Bận tâm dai dẳng và đau khổ về khả năng có một rối loạn trầm trọng của một cơ quan hoặc hệ thống được nêu ra, nhưng không đáp ứng sự giải thích và sự trấn an nhiều lần của thầy thuốc.
- Không có bằng chứng là có rối loạn đáng kể về cấu trúc hoặc chức năng của hệ thống hay cơ quan được nêu.
5. Rối loạn đau dạng cơ thể dai dẳng (F45.4)
Than phiền chiếm ưu thế là đau đớn dai dẳng, trầm trọng, và gây đau khổ mà không thể giải thích đầy đủ trong quá trình sinh lý hoặc rối loạn cơ thể. Đau xảy ra kết hợp với xung đột về cảm xúc hoặc những vấn đề tâm lý xã hội đủ để cho phép kết luận chúng là nguyên nhân chính.
Bao gồm: đau tâm sinh; đau lung hoặc đau đầu tâm sinh, rối loạn đau dạng cơ thể.
6. Rối loạn dạng cơ thể khác (F45.8)
Một số rối loạn dạng cơ thể khác:
- “Hòn hysteria” (cảm gián hòn trong họng gây nuốt khó) và các thể khác của nuốt khó.
- Vẹo cổ tâm sinh, và các rối loạn khác của vận động co thắt (trừ hội chứng Tourette).
- Ngứa tâm sinh (nhưng loại trừ các thương tổn da đặc hiệu như rụng tóc, viêm da, chàm hoặc mề đay tâm sinh (F54).
- Rối loạn kinh nguyệt tâm sinh (nhưng loại trừ chứng đau khi giao hợp (F52.6) và lãnh đạm tình dục (F52.0)).
- Nghiến răng.
7. Rối loạn dạng cơ thể, không biệt định (F45.9)
Bao gồm: rối loạn tâm thể hoặc tâm sinh lý không biệt định